Monday, November 28, 2011

Ngày Nhà Giáo năm 2011

Ngày 26-11-2011 Nhóm CHS/NH tại Sài Gòn có tổ chức họp mặt Tri ân Thầy Cô Giáo cũ tại Nhà Hàng Bích Câu Phú Nhuận.

Friday, November 11, 2011

Mừng ngày Nhà Giáo

Nhân ngày Nhà Giáo chúc các bạn luôn vui khỏe để làm tròn trách nhiệm "trồng người" cho thế hệ mai sau.
Bùi Phước Vĩnh

Tuesday, October 25, 2011

Nhiều kiểu mũ lạ của Gadhafi

             Nhà lãnh đạo bị lật đổ Moammar Gadhafi nổi tiếng là người thích đội mũ và từng
              xuất hiện trước công chúng với nhiều kiểu mũ lạ mắt.




Ông Gadhafi đội chiếc mũ quân phục màu trắng.



Ngoài mũ quân phục, ông Gadhafi còn đội những loại mũ khác nhau.



Monday, August 15, 2011

Huy Phương



Huế của một thời
Ðến với Huế, người ta như đi trở ngược lại giòng thời gian, ở đây, quá khứ bao trùm lên tất cả. Ở đâu cũng thấy những dấu vết nhắc ta nhớ tới những ngày tháng đã qua, với những di tích, đền đài, lăng tẩm, với những ngàn thông reo, với những bờ tre xanh mướt bên giòng Hương lặng lẽ. Những người đã khuất mà hình như linh hồn còn ở đâu đây, phảng phất bóng tinh kỳ hay tiếng trống chiêng, bát nhã, sênh phách cầm ca.

Nơi đây, những dấu ấn của lịch sử còn ẩn hiện trên mỗi bờ thành, góc phố, nơi tấm bia mộ hay trên những lăng tẩm. Nơi đây là dĩ vãng, là tháng ngày qua, người ta về đây là để hồi tưởng, để nhớ nhung. Ở đâu cũng đượm một vẻ buồn, mà người ra đi thường ray rứt muốn có một ngày trở lại.

Huế không những là vùng đất của quá khứ, mà Huế còn như bao phủ bởi những linh hồn quá vãng, là của hương trầm, là của chuông mõ luôn luôn nhắc nhở tới sự hiện diện của những linh hồn oan khuất. Ðó là những linh hồn chưa siêu thoát trong một bề dày của Huế tang tóc, chết chóc, tức tưởi, của những ngày thất thủ kinh đô, khi giặc Pháp tấn công Huế năm 1885, của hàng ngàn cái chết oan khuất giữa ngày Tết Mậu Thân mà máu xương rải rác từ đồng bằng Phú Thứ cho đến khe sâu Ðá Mài, của thây chất thây trên bờ biển Thuận An dưới cơn mưa pháo 75, của hàng trăm thân xác cuốn theo giòng nước lũ của mùa Thu năm Kỷ Mão.

Ban đêm, Huế có chỗ nào là không có lập lòe nén hương, suýt soa khấn vái, cầu nguyện. Sau tang tóc Mậu Thân, hãy về Huế mà nghe, nửa đêm về sáng, láng giềng, hàng xóm vang dậy chuông mõ và tiếng tụng kinh cầu nguyện cho những người đã mất sớm được siêu thăng. Huế là nơi đã trải qua nhiều biến cố đau thương, Huế đã than khóc với những tang tóc và oan khuất sẽ không bao giờ phai lạt. Nơi mỗi khu vườn của Huế đều có mỗi am thờ cho những người khuất mặt, với hoa quả, một cành hoa phượng và một ngọn đèo leo lét. Linh hồn những người khuất mặt hình như vẫn còn lẫn khuất đâu đây. Huế không bao giờ là của tương lai, nơi đó là quá khứ, là những gì đã yên nghỉ, cùng với những linh hồn oan khuất chưa siêu thoát.

Chuyện một cây cầu đã gẫy mà qúy vị và các bạn vừa nghe trong giọng hát Duy Khánh và Hương Lan. Đây là một sáng tác của Trầm Tử Thiêng. Ông đã ghi lại cảm xúc đau đớn bàng hoàng trong Tết Mậu Thân, Huế bị tan nát dập vùi khi chính những người con lạc đường của Huế đem gươm đao về phá xóm làng, giết cha mẹ anh em. Chính họ đã nhẫn tâm đội khăn tang cho Huế…

Nói đến Huế, chúng ta liên tưởng đến những cảnh chùa chiền. Không đâu trên đất nước, trong một vùng đất nhỏ hẹp mươi chục cây số vuông, mà có tới trên một trăm cảnh chùa.

Nhớ Huế làm sao khỏi nhớ đến những khu vườn. Vườn là khoảng không gian của thời thơ ấu của mỗi chúng ta, là bóng mát thời trẻ dại, là những nỗi hẹn hò, là những thứ trái cây ngọt ngào hay chua chát mà vẫn mang đầy hương vị của thời mới lớn. Tuổi ấu thơ và nhất là thời mới lớn, tuổi dậy thì, lòng ai không khỏi ngát hương hoa, trong một khu vườn tĩnh mịch nào đó, với nỗi lòng rung động thuở ban đầu còn trong suốt và đơn giản như những giọt sương mai.

Có phải ngày xưa vườn Ngự Uyển
Là đây hoa cỏ giống vườn tiên
Gót sen nhẹ bước lầu Tôn Nữ
Ngựa bạch buông chùng áo Trạng Nguyên
(Nguyễn Bính)


Vườn Huế ngày hè còn rộn tiếng ve, nhắc nhở tới mùa thi cũng là mùa chia cách. Giữa những buổi trưa yên lặng mùa hè, một tiếng ve cất lên khởi đầu, rồi muôn ngàn tiếng ve vùng lên phụ họa, tạo nên một khúc hòa tấu, âm thanh lan ra từng vùng rộng lớn. Cùng với hoa phượng nở trên những con đường xứ Huế, tiếng ve đã mang mùa hè đến bao nhiêu lần trong quãng đời học trò, ghi lại bao nhiêu mối tình, bao nhiêu sum họp và chia ly.

Hương trong vườn Huế, có khi là hương bưởi, có khi là hương dạ lý, có khi là hương sói, hương lài, hương mộc lan, cũng có khi là hương sầu đông thơm ngát một khung trời thời trẻ dại. Và đêm vườn Huế làm sao có thể thiếu trăng. Trăng lặng lẽ soi những bóng cây trong vườn, trăng lên trên đọt cau, trăng ướt trên ngọn dừa. Và trăng trên sông Hương, trăng trên màu sáng bạc của cầu Trường Tiền, trăng trên mái thuyền, trăng vỡ dưới mái chèo và ánh trăng rung động theo âm thanh của những tiếng hò đêm trên song…

Huế với những dòng sông chảy ngang dọc tạo cho Huế một vẻ đẹp tươi mát dịu dàng. Nhưng cùng theo với những dòng sông đó, mỗi năm cơn bão lụt đã gieo tai họa thảm khốc xuống Huế. Nghèo đói, tai ương hầu như triền miên trên mảnh đất miền Trung cằn cỗi, nhưng Huế chính là tâm điểm của hiểm họa thiên tai. Có nơi nào chịu nhiều nỗi bất hạnh, thống khổ như Huế. Những xác người trôi ra biển cùng với những mái tranh nghèo theo những cơn nước lũ, cơn đói đổ ập lên cả một vùng đất cằn cỗi trong nhiều ngày tháng. Có nơi nào chịu những cảnh chết chất chồng dày xéo, có nơi nào chịu cảnh chết thảm khốc trong những mồ tập thể như Huế…

Huế như một người con gái tài hoa mà bất hạnh. Huế là “nơi đi để mà nhớ, không phải ở để mà thương”. Người xa Huế như xa một mối tình không trọn vẹn, nhưng xa rồi, thương nhớ xót xa biết bao nhiêu.

Huế là nỗi ám ảnh không rời, Huế là nơi gợi cho chúng ta những giấc mơ xưa không bao giờ thành, là nơi chúng ta thường mong ngày trở lại nhưng không bao giờ đúng hẹn.

*Tiểu sử tác giả
Tên thật của Huy Phương là Lê Nghiêm Kính
Cựu học sinh trung học Khải Ðịnh và trường Quốc Gia Sư Phạm Saigon.
Dạy học tại trường trung học Nguyễn Hoàng Quảng Trị
Động viên vào khoá 16 Sĩ Quan TB Thủ Ðức

Friday, August 12, 2011

Chuyện của Nữ hoàng Việt Nam



Chuyện Nữ hoàng duy nhất của VN bị chồng gả bán

Trong chính sử, Lý Chiêu Hoàng được miêu tả như một nữ hoàng dâm cuồng, lấy chồng không vừa lứa đôi, không còn trinh tiết, mới 6 tuổi đã có tình ý với Trần Cảnh...
 
Lý Chiêu Hoàng (1218-1278) là vị vua thứ 9 và là cuối cùng của nhà Lý (Việt Nam) từ năm 1224 đến năm 1225, đồng thời là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam. Bà là con thứ của vua Lý Huệ Tông, tên húy là Phật Kim, tước hiệu là Chiêu Thánh công chúa.

Cả cuộc đời 61 năm của bà có thể nói là sự nối tiếp của những chuỗi dài trầm luân vinh nhục, bắt nguồn từ tình yêu, hôn nhân bị chi phối bởi những mưu đồ tối tăm của các thế lực, phe phái chính trị trong hoàng cung thời đó.


Màn kịch tình yêu và hôn nhân trong cung cấm

Năm 1224, Trần Thủ Độ chuyên quyền, ép cha của công chúa Chiêu Thánh là vua Lý Huệ Tông đi tu. Lý Huệ Tông không có con trai, ông phải lập Chiêu Thánh làm Thái tử, rồi truyền ngôi, gọi là Lý Chiêu Hoàng. Lúc đó, Chiêu Hoàng mới 6 tuổi.


Đi thành công nước cờ đầu tiên trong mưu đồ tiếm ngôi, Trần Thủ Độ tiếp tục đưa Trần Cảnh là cháu họ, 8 tuổi, vào cung hầu hạ Lý Chiêu Hoàng, thực ra là lấy cớ để dựng nên cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chính bằng cách để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng chứ ai cũng hiểu một cậu bé 8 tuổi làm sao có thể hầu hạ được một cô bé cùng trang lứa.


Mặc dù ngồi ở ngôi cao nhất thiên hạ nhưng Chiêu Hoàng vẫn chỉ là một đứa trẻ non dại. Sống trong cung cấm từ nhỏ và được bao bọc bởi hành nghìn hàng vạn điều cấm kỵ, Chiêu Hoàng gặp được Trần Cảnh thì vui thích vì có người bầu bạn chứ làm sao đã biết đến chuyện ái tình nam nữ. Nhưng cả Đại Việt Sử ký Toàn thư và Đại Việt sử lược đều ghi rằng Trần Cảnh được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến, hay trêu đùa: "... Một hôm, Cảnh bưng nước rửa, nhân thế vào hầu bên trong. Chiêu Hoàng trông thấy làm ưa, mỗi khi chơi đêm cho gọi Cảnh đến cùng chơi, thấy Cảnh ở chỗ tối thì thân đến trêu chọc, hoặc nắm lấy tóc, hoặc đứng lên bóng. Có một hôm, Cảnh bưng chậu nước hầu, Chiêu Hoàng rửa mặt lấy tay vốc nước té ướt cả mặt Cảnh rồi cười trêu… đến khi Cảnh bưng khăn trầu thì lấy khăn ném cho Cảnh... Cảnh xin tha tội thì cười mà rằng: "Nay ngươi đã biết khôn rồi đó". Cảnh không dám nói gì, về nói ngầm với Thủ Độ… Thủ Độ bấy giờ sợ việc bị tiết lộ thì cả nhà bị giết, mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm rồi loan báo: "Bệ hạ đã có chồng rồi”.


Những ghi chép của các sử thần này thực hư ra sao hậu thế không rõ, nhưng chủ ý thì đúng là cho rằng Chiêu Thánh từ nhỏ đã biết chuyện bướm ong, gợi ý tư tình đối với Trần Cảnh. Thực ra cũng chỉ là một chiêu Trần Thủ Độ hợp lý hóa việc Chiêu Thánh lấy Trần Cảnh và nhường ngôi.


Ngày mồng 1 tháng Chạp năm 1225, Chiêu Hoàng trút bỏ hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Trần Thái Tông, chấm dứt thời kỳ trị vì của nhà Lý, dựng lên nhà Trần. Năm đó, Chiêu Thánh mới 7 tuổi và cũng là lúc khởi đầu quãng đời đầy sóng gió vinh nhục của người phụ nữ bất hạnh này.


Nhường ngôi và bị phế truất

Nhường ngôi cho chồng, Lý Chiêu Hoàng được phong Chiêu Thánh hoàng hậu và chung sống hạnh phúc với chồng bấy giờ là Trần Thái Tông được gần 10 năm, tình cảm cũng khá sâu sắc. Những tưởng được đền bồi vì đã an phận không làm vua nữa thì đã có chồng làm vua, nếu sinh được con trai, thì con bà cũng lại tiếp tục kế nghiệp của nhà Trần, cũng an ủi được phần nào đối với vương triều nhà Lý. Nhưng 7 năm sau (1232), Chiêu Thánh 14 tuổi, hạ sinh con trai là thái tử Trịnh nhưng không may Trịnh mất ngay. Từ đó, Chiêu Thánh đau ốm liên miên, không sinh được người con nào với Trần Thái Tông nữa.


Đến năm 1237, Trần Thủ Độ và vợ là công chúa Thiên Cực (tức Trần Thị Dung - vợ cũ vua Lý Huệ Tông, mẹ của Chiêu Thánh) ép Trần Cảnh phải bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ Trần Liễu, chị gái Chiêu Thánh) là công chúa Thuận Thiên đang có thai 3 tháng. Trần Cảnh lúc đầu phản đối, bỏ ngôi vua lên chùa Phù Vân ở Quảng Yên. Trần Thủ Độ vừa dỗ vừa gây sức ép, cuối cùng cũng phải chịu nghe theo. Không còn chỗ bấu víu, Chiêu Thánh bị giáng xuống làm công chúa.


Mới 19 tuổi, Chiêu Thánh đang từ ngôi cao hạnh phúc lâm vào cảnh mất ngôi, mất chồng, không con cái, bị chính người mẹ dứt ruột đẻ ra thông đồng với Trần Thủ Độ ép uổng, nặng nề hơn là mang trọng tội không giữ được ngôi vua mà dòng họ Lý gìn giữ hơn 200 năm qua. Lúc này bà mới ngộ ra mình chỉ là con rối trong tay những người thân thích bị thế quyền làm mờ mắt.


Xuất gia tu hành nhưng vẫn bị chồng cũ gả bán

Những biến cố lớn của cuộc đời dồn dập xuống khiến Chiêu Thánh quá buồn và chán nản, không chịu được cảnh ngột ngạt trong cấm cung, bà xin với triều đình cho xuất gia đi tu. Những tưởng đã dứt phàm trần, vài năm sau, cuộc đời người phụ nữ này lại bị khuấy đảo dữ dội chính bởi sự phũ phàng, tệ bạc của người chồng cũ. Năm 1258, Chiêu Thánh bị Trần Thái Tông gả cho Lê Phụ Trần để thưởng công ông ta đã giúp vua thoát chết trên sa trường. Đây cũng chính là những chuyện khiến người đời sau mỗi khi nói đến đời vua Trần Thái Tông thường chê trách vì coi thường đạo vợ chồng, phạm luân thường đạo lý…


Chiêu Thánh trở thành phu nhân cuả Lê Phụ Trần và đã sinh cho Phụ Trần hai người con, trai là Thượng Vị hầu Tông, gái là Ứng Thụy công chúa Khuê. Việc sinh con đã mang lại niềm hạnh phúc được làm mẹ cho Chiêu Thánh, là niềm an ủi lớn lao cho quãng đời còn lại của bà.


Đến năm 1277, nghe tin chồng cũ là Thượng hoàng Thái Tông qua đời, quá khứ đau thương sống lại dày vò Chiêu Thánh khiến bà mang tâm bệnh rồi một năm sau trẫm mình dưới sông tìm đến sự giải thoát, thọ 61 tuổi. Bà mất đi nhưng những thành kiến khắc nghiệt của các sử thần Nho giáo vẫn không chịu buông tha. Việt Sử Tiêu Án viết: Hiện nay ở tỉnh Bắc Giang có đầm Minh Châu, giữa đầm có phiến đá to, người ta truyền lại rằng: Bà Chiêu Thánh cắp hòn đá nhảy xuống đầm mà chết, trên đầm có miếu Chiêu Hoàng, đó là thổ dân nơi đó bênh vực hồi mộ cho bà Chiêu Thánh mà đặt ra thuyết ấy. Bà Chiêu Hoàng nhất sinh là người dâm, cuồng, lấy chồng không vừa lứa đôi, đâu còn trinh tiết như lời người ta truyền lại.


Lúc còn sống, bà đã phải chịu nhiều đau khổ và búa rìu dư luận, nhưng sau khi chết đi rồi, tuy là một vị vua chính thức của vương triều nhà Lý nhưng Lý Chiêu Hoàng đã không được sử sách công nhận một cách công bằng. Nhà Lý có 9 vị vua, nhưng chỉ có 8 vị trước Lý Chiêu Hoàng (từ Lý Thái Tổ tới Lý Huệ Tông) được thờ tại Đền Đô, còn riêng bà Chiêu Hoàng thì lại thờ riêng tại một khu vực khác, gọi là Đền Rồng.


Lý Chiêu Hoàng dù xuất thân hoàng tộc cao quý nhưng cuộc đời đầy sóng gió, đau thương, chính là nạn nhân tiêu biểu của những thế lực chính trị muốn chiếm đoạn ngai vàng lúc bấy giờ. Bà không khác gì con rối bị lợi dụng trong bối cảnh rối ren và tàn độc của thế quyền. Chưa hết, hàng trăm năm sau khi mất, bà vẫn là nạn nhân của của những quan niệm khắc nghiệt của chế độ phong kiến Việt Nam và hệ tư tưởng Nho giáo.


Theo Báo Đất Việt

Sunday, February 20, 2011

NHÓM HS NH 6471 HỌP MẶT ĐẦU NĂM

Sáng nay 19.02.2011, nhóm NH6471 đã họp mặt đầu xuân Tân Mão tại nhà hàng Đoàn Viên số 06 Huyền Trân Công Chúa Q.1 TPHCM
Tuy đã được báo trước nhưng giờ phút cuối một số anh có công tác hay việc gia đình đột xuất nên vắng khá đông. Bù lại nhóm được đón bạn Hồ Sĩ Bình từ Đà Nẵng vào, bạn Cái Phúc Thắng, bạn Lê Hải, bạn Nguyễn Ước mới đến lần đầu (qua Võ Đình Đoan, Hồ sĩ Bình và Bùi Văn Thông kết nối), ngoài ra nhóm cũng được đón tiếp các cảm tình viên như các anh Phạm Như Cù, Nguyễn Ròn, Võ Minh Lạc, anh Hải từ Trị an Đồng nai , anh Lê Diễn (anh ruột Lê Hải) và nhà báo đồng hương Đoàn Thạch Hãn
Về phía NH6471 có Trần Hửu Giáo & Nguyễn Ngọc Thái (Xuân Lộc Đồng nai), Trần Lượng (Lộc Ninh Bình phước), Võ Văn Trị (Suối cát Đồng nai), Phan Văn Thám (Biên Hoà Đồng Nai), Võ Đình Đoan (Gò Công Tiền Giang), Hoàng Thanh Bình & Nguyễn Ngọc Phụ (Trị An Đồng nai), Nguyễn Chơn Lộc (Xà bang Bà Rịa Vũng tàu), Nguyễn Ước (Datek Lâm đông), Trương Ngọc Bĩnh (Đức linh Bình thuận), Hồ Sĩ Bình (Danang), Lê Bá Lư, Trần Thị Xuân, Trần Văn Hảo, Trần Lộc, Phạm Đình Quát, Bùi Phước Vĩnh, Bùi Văn Thông, Cái Phúc Thắng, Lê Hải, Nguyễn An, Lê Văn Pháp






Tuesday, February 15, 2011

Nhóm bạn 64 họp mặt tiễn Nguyễn Tường

Chiều-2-2011 nhóm bạn gồm:Trần Văn Hảo-Lê Bá Lư-Bùi PhướcVĩnh-Châu Hãi Dần-Trần Phong Dũng-Văn Kế Thế-Võ Kham-Nguyễn An-Trần Hưng và Nguyễn V Quát đã họp mặt tại nhà hàng Bằng Hữu để đưa tiễn Nguyễn Tường về Mỹ, sau đó ghé thăm chúc Tết nhà Châu Hãi Dần.
Mời các bạn xen một vài hình ảnh của buổi họp mặt

Thursday, February 10, 2011

Gặp nhau đầu năm

Hình họp mặt mồng 7 Tết Tân Mão tại nhà Vĩnh

Cám ơn nhau
Cám ơn anh cám ơn đời
Cám ơn em
Cám ơn hết mọi người ...cả tôi
Chúng ta tạo một sân chơi lớn
Mỗi người mang lửa đóm trong mình
Đốt lên cho sáng đêm đen
Cho tan giá buốt cho quên tủi buồn
Cho cháy hết cô đơn, ngăn cách
Cho rõ mặt nhau, một mái trường
Ai về còn nhớ gì không
Tôi về tôi nhớ tấm lòng của ai.
Hãy góp nữa bàn tay không nghỉ
Góp bất kì, bất kể, bất phân
Rồi ra đời có một lần
Rồi ra còn lại tình thân Nguyễn Hoàng
(Nguyễn Tường, Saigon sau họp mặt
Tân Niên Canh Dần 2010 tại Thanh Đa)


Trần Văn Hảo và Nguyễn Tường

Vợ chồng Bùi Phước Vĩnh với Lư-Hảo và Tường


Hảo-Tường-Lư-Quát-Vĩnh và Châu Hải Dần

Ngẫu hứng cùng bạn bè
Mồng bảy hôm nay vui quá trời
Bá Lư say lắm phải xin thôi
Nguyễn Tường rót rượu mời anh Thế
Nguyễn Quát Châu Dần vô góp vui
Anh Hảo yếu người nên  uống ít
Chủ Nhà mệt quá phải cho thôi
Đường xa không ngại vì bè bạn
Bè Bạn như ri được mấy người !!!!

 Văn Kế Thế
 Bè Bạn như ri được mấy người
Cùng ngồi cười giỡn thỏa lòng thôi
Phước Vĩnh đi xa về rất mệt
Chị vợ đến ngồi bên quá vui
Lê Bá ngâm thơ tràn "Nữa nữa!"
Châu Dần uống rượu ngắt "Thôi thôi!
Nếu mai tôi trở về tro bụi
Bạn đọc giùm ai điếu cúng trời"
Nguyễn Tường
LÝ DO
Nguyễn Tường dân Lệ Xuyên sinh ra
Lê Bá Lư làng tận Bích La
Cũng vội chào đời sau ít phút
Để cho anh nó chọc vui mà.
Nguyễn Tường

 Nguyễn Tường ơi hỡi Nguyễn Tường
Họa vui phải đúng thơ Đường luật nhe.
Sửa đi kẻo bạn bè chê
Câu ba (3) trật lất có nghe không nào?!
(Văn Kế Thế)
Từ từ đừng có ồn ào
Họa vui đâu ngán Đường vào Đường ra
Xem đây tớ sửa câu ba (3)
Bạn bè đọc lại ...a ha ...quá tài
Câu bảy (7) của Thế tiếc thay,
Làm ơn chỉnh lại báo ngay Nguyễn Tường
Nguyễn Tường
(Bài đã sửa sau đây)
Mồng bảy hôm nay vui quá trời
Bá Lư say lắm phải xin thôi
Nguyễn Tường rót rượu mời anh Thế
Nguyễn Quát Châu Dần vô góp vui
Anh Hảo yếu người nên  uống ít
Chủ Nhà mệt quá phải cho thôi
Đường xa không ngại vì bè bạn
Bè Bạn như ri được mấy người !!!!

 Văn Kế Thế
Bè Bạn như ri được mấy người
Cùng ngồi cười giỡn thỏa lòng thôi
Vĩnh từ Mũi Né về nghe mệt
Vợ tới vai kề lại thấy vui
Lê Bá ngâm thơ tràn "Nữa nữa!"
Châu Dần uống rượu ngắt "Thôi thôi!
Nếu mai tôi trở về tro bụi
Bạn đọc giùm ai điếu cúng trời"
Nguyễn Tường

 Nguyễn Tường ơi hỡi Nguyễn Tường
Quát ta họ Phạm nhắc Tường nhớ nhe
Sửa đi kẻo bạn bè chê
Họ hàng trật lất có nghe không nào?! 
(TRAN PHONG DUNG)
Dũng mình chẳng hiểu tại sao
Không chịu đọc kỹ anh nào xướng ra
Thứ nhất : Kế Thế nhà ta
Viết từ "Nguyễn Quát" phải mà Tường đâu
 
Thứ hai : Phạm Quát bạc đầu
Nguyễn Quát tóc nhuộm khác nhau một trời.
Dũng nên lên mạng đùa chơi
May ra khỏi bệnh "nhìn người tùm lum".
Kỳ này cả nhóm tập trung
Đề nghị phạt Dũng nộp thùng rượu ngon.
Nhớ là mồi nộp kèm luôn,
Xong việc báo cáo Nguyễn Tường thẩm tra.
NT
Quang Tuyết
họa bài của Văn Kế Thế

 Mồng bảy sao vui rứa hỡi trời?!
Ngồi buồn nghe gọi Thế đi thôi
Chén đầy này nhé, Lư cầu Thế
Ly cạn hỏi Tường, Hảo góp vui
Bác Quát, bác Dần cười lặng lẽ
Riêng Bùi, bà Xã phải xin thôi
Sao không nhắn gọi mình qua đó?
Nâng chén chung vui với mọi người
LÊ BÁ LƯ KHIẾU NẠI
Lệ Xuyên có Tú Ông
Thích nói chuyện lông bông
Hay đùa anh Lê Bá
Người làng Bích La Đông
Câu chuyện nghe thật ngông
Bởi khi Lư lọt lòng
Tường còn trong bụng mẹ
Đòi làm anh được không?
Cho dù sinh trước Tú
Vài canh cũng là anh
Anh Lư khuyên em Tú
Nên rõ ràng đệ huynh
Tú ơi
(Lê Bá Lư)
ANH TƯỜNG CẢNH CÁO
Chú Lư nghe anh đây
Hãy nhớ kỹ điều này:
Anh cao hơn cả tấc
Chú nhẹ gió thổi bay
Nếu chú còn khiếu nại
Anh bực mình ra tay
Chú đừng hòng trốn chạy
Khôn hồn thì im ngay
Anh Tường
KẾ THẾ KHUYÊN BẠN
Hai chú hãy nghe đây
Anh Thế phán điều này
Hai em đừng tranh cãi
Lớn nhỏ có chi hay
Chủ yếu là phải ngoan
Ăn nói cho đàng hoàng
Siêng ở nhà với Vợ
Đừng có đi lang thang
Anh nói riêng chú Lư
Làm chi cũng từ từ
Nhớ dục tốc bất đạt
Nhưng đừng có lừ đừ
Còn riêng với chú Tường
Ăn nói được dễ thương
Dáng người thì cao ráo
Nên cho phép được cương
Văn Kế Thế
Cám ơn anh Kế Thế
Ăn nói rất tử tế
Đâu phải như chú Lư
Đúng như lời: "quá hư!"
Cứ "dục tốc bất đạt"
Không tập tính từ từ.
Riêng về khoản "lừ đừ"
Bá Lư nay khó bỏ
Chỗ bạn bè nói nhỏ
Thế nhắc nhở đúng thay
"Thằng nhỏ" Lư độ rày
Làm việc nhiều nên mệt
Chỗ này thầy thuốc biết
Các bạn chỉ giùm Lư
Nguyễn Tường
Chú Tường lại lung tung
Làm chú Lư ngại ngùng
Khoản này chú Lư giấu
Vì ở thế đường cùng!!!
Thôi thôi tha cho bạn
Mất này lại được kia
Chịu ở nhà mấy tháng
Là tiếp tục lia chia
Anh Thế là dược sĩ
Chú Lư cứ hỏi đi
Biết rành anh sẽ chỉ
Không nên giấu làm chi
Hay qua Lê chí Dũng
Coi cái đó ra sao
Còn trong hạn sử dụng !!!
"Lòng với môn ta xào"
(Văn Kế Thế)
Nhóm mình thật tự hào
Nhiều nhân tài đủ khắp
Nhưng tôi vẫn thắc mắc
Sao nhiều bạn không hay
Bệnh gì thời buổi nay
Người ta đều chữa được
Thì ra ngồi suy ngược
Lỗi ở chỗ giấu nhau
Như bệnh Lư đã lâu
Không chữa lành mới lạ
Nay Thế đã hiểu cả
Rán giúp chú em tôi.
Ơn này xin suốt đời
Tôi tạc lòng ghi dạ
Có tiền tôi hậu tạ
Nhưng Thế đừng trông mong
Tôi giờ túi rỗng không
Nếu sau này trúng số
Tặng Thế chục ngàn đô
NT
 Phước Vĩnh giải hòa
Ngày Xuân ta chúc an lành
Mà sao các chú "khẩu tranh "ầm trời
Bạn bè ở khắp mọi nơi
Nghe được buồn lắm hết lời cười chê
Thôi thì giải pháp làm huề
Chia tay Tường lai trở về Mỹ xa
Lư chịu vài thùng băm ba
Tường mua vài chục con gà - trứng ung
Hảo chọn địa điểm sau cùng
Anh em ngồi lại nổ tung bầu trời
Kế Thế xin hãy nhẹ lời
Trách Lư tội nghiệp ,say rồi biết chi
Anh em bè bạn thôi thì
Bỏ qua- bỏ lại- bỏ đi mọi điều
Ngày mai gặp lại nói nhiều...
BPVinh

THƠ SAY
"Thơ ơi thơ hỡi là thơ,
Thơ buồn thơ thẩn,thẫn thờ thơ ơi !
Uống cho cạn chén, thơ mời.
Nữa say nữa tỉnh bao lời thơ ra...
Hồn thơ thấm đượm men ngà,
Thơ hay,thơ dỡ cũng là thơ say.
Muốn say quên cả trời mây,
Quên buồn,quên tủi,quên rày,quên mai...
Có buồn mới viết thơ hay.
Có say mới bớt chua cay cuộc đời.
Thơ ơi,thơ hỡi,thơ ơi !
Thơ buồn ta khổ,thơ mời (thì) ta say..."
                                (Nguyễn An.)

Mũi Né-Phan Thiết

Wednesday, January 5, 2011

Một thời con gái



Em giờ đã khác ngày xưa

Trên đầu tóc đã lưa thưa bạc màu

Da nhăn má hóp môi nâu

Một thời con gái ở đâu mất rồi

Bạn bè mỗi đứa một nơi

Làm sao tìm lại góc trời ngày xưa

Phượng hồng rực nắng ban trưa

Tiếng ve day dứt tiễn đưa một người

Chiều đông lạnh giá tím môi

Tìm đâu bạn cũ xa xôi một thời...

BPVĩnh 1-2011

Tuesday, January 4, 2011

CÁM ƠN



Cám ơn đời còn cho ta cuộc sống

Chút nắng vàng trong buổi sáng tinh mơ

Đời vấn vương nên ta mãi đợi chờ

Chưa viết hết bài thơ còn dang dở

Đông đi qua xuân đang chờ phía trước

Chiều lạnh buồn nhường bước nắng hồng tươi

Hãy cho nhau những ánh mắt nụ cười

Tô thắm mãi cho đời thêm tươi đẹp

Đường còn dài dù ta chưa biết được

Đi về đâu rồi kẻ trước người sau

Dang vòng tay để tìm đến bên nhau

Cùng chia xẻ nổi đau trong cuộc sống

Hãy quên đi những niềm riêng thù hận

Ươm hạt mầm cây nhân ái vị tha

Vườn yêu thương sẻ kết trái nở hoa

Mang hương sắc làm quà cho cuộc sống

BPVĩnh 2-1-2011