Sunday, December 9, 2012

ĐỘNG HOA VÀNG


ĐẾN ĐỘNG HOA VÀNG GẶP “GÃ TỪ QUAN”
                         
 
              

     Quán cà phê Hoa Vàng nằm ở một góc khuất  trong cư xá Bắc Hải, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Đến đây, khách thường thấy mộtngười đàn ông tầm thước, dáng vẻ nông dân, da ngâm ngâm, mũi lân, trán cao, miệng rộng, răng to, khi thì ngồi một mình cặm cụi viết trên cuốn sổ nhỏ bằng nửa bàn tay, khi thì ung dung chuyện trò với khách, đó là nhà thơ Phạm Thiên Thư,  tác giả thi phẩm “Động Hoa Vàng”, đã được nhạc sĩ tài danh  Phạm Duy phổ thành ca khúc nổi tiếng “Đưa em tìm động hoa vàng” được rất nhiều người yêu thích.

                                

                                      "Gã từ quan" Phạm Thiên Thư


      Bạn bè thân hữu thường gọi quán Hoa Vàng là "động Hoa Vàng" và nhà thơ Phạm Thiên Thư là: “gã từ quan”,  bởi “Động hoa vàng- Rằng xưa có gã từ quan” đã gắn liền với tên tuổi Phạm Thiên Thư, và nhà thơ cũng đã từng rủ bỏ cuộc đời trần tục, lên chùa tu hành kinh kệ gần 10 năm.
      Trong những lần tiếp xúc với nhà thơ Phạm Thiên Thư, tôi cảm thấy ông là một con người đặc biệt,  bao hàm nhiều tính cách, mênh mang nửa đạo nửa đời. Trông ông vừa như một thiền sư sâu lắng, một triết gia uyên thâm, một thi sĩ lãng mạn, vừa là gã lãng tử thích rong chơi cõi đời…, coi mọi chuyện trần gian đều là phù du, hư ảo.         Phạm Thiên Thư luôn có vẻ ung dung tự tại, nhưng nhìn vào khối lượng tác phẩm đồ sộ của nhà thơ, chúng ta có thể hiểu ông, trước hết là một nghệ sĩ tài năng với năng lực sáng tạo và sức làm việc thật phi thường.  Sự nghiệp 50 năm sáng tác của ông đã đóng góp vào kho tàng văn học nước nhà vài chục vạn câu thơ độc đáo, với nhiều tác phẩm trong nhiều lãnh vực.                                                                                                  
      Phạm Thiên Thư luôn tìm tòi sáng tạo, mở cho mình con đường sáng tác riêng. Nhiều  tác phẩm kinh điển đã được ông chuyển thành thơ. Phạm Thiên Thư đã thi hóa 7 bộ kinh của Phật giáo, như kinh Kim Cương (kinh Ngọc), kinh Pháp Cú (kinh Thơ), kinh Hiền Ngu (kinh Hiếu, kinh Hiền)…

    Với lòng kính trọng thi hào Nguyễn Du và yêu mến truyện Kiều, Phạm Thiên Thư đã “cả gan” viết “Hậu Kiều- Đoạn Trường Vô Thanh” tiếp nối “Truyện Kiều- Đoạn trường Tân Thanh” dài 3.296 câu lục bát, với tinh thần đề cao tính dân tộc, xóa bỏ mọi điển tích, từ chương Hán ngữ, thay vào đó bằng lịch sử, điển tích, ngôn ngữ, đất nước, con người Việt Nam…“Đoạn Trường Vô Thanh” đã đoạt giải nhất văn chương toàn quốc năm 1973 dưới chế độ cũ Sài Gòn.
        Phạm Thiên Thư  đã sáng tác từ điển cười  bằng thơ, đây là một tác phẩm độc đáo với 24.000  câu tứ tuyệt. Theo châm ngôn “nụ cười bằng mười thang thuốc”, “cười vui đẩy lùi bệnh khổ”,  cười để chữa bệnh (tiếu liệu pháp), nhà thơ đã nghĩ ra đủ mọi thứ trên đời cười; sử dụng sự hài hước, dí dỏm để chữa tâm bệnh. Trong lời giới thiệu “Từ điển cười” của Phạm Thiên Thư, bác sĩ Trương Thìn - Chủ tịch Hội Đông y TP. Hồ Chí Minh đã viết: “Phạm Thiên Thư làm y thơ, tiếu liệu pháp, ai cũng cười, cười phá được khổ đau, cười òa trong giác ngộ,…”. Nhà thơ đã được Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục “Là người Việt Nam đầu tiên sáng tác từ điển cười bằng thơ”.
        Cuộc hạnh ngộ của hai bậc nghệ sĩ  tài hoa họ Phạm- nhạc sĩ Phạm Duy và thi sĩ Phạm Thiên Thư, đã để lại nhiều giai thoại một thời trong giới văn chương. Khoảng thời gian 1970, nhạc sĩ Phạm Duy sau khi qua quảng đường dài sáng tác, từ dân ca, tình ca, tâm ca, hoan ca, tục ca, vĩa hè ca,…. sáng tác của Phạm Duy đã đí vào  bế tắc, chán chường. Lúc đó cơ duyên Phạm Duy đã bắt gặp  những vần thơ nhẹ nhàng, thanh khiết, mênh mang, thâm trầm, nửa đạo nửa đời, thiền ý sâu xa của thi sĩ kiêm tu sĩ Thích Tuệ Không (pháp danh của Phạm Thiên Thư), Phạm Duy đã tìm ra lối thoát cho hồn nhạc, thấy được con đường đi vào Đạo ca, hay đúng hơn là đi vào Đạo sống. Ngoài một số nhạc phẩm Phạm Duy sáng tác từ những vần thơ của Phạm Thiên Thư đã đi vào lòng công chúng, như  “Đưa em tìm động hoa vàng”, “Ngày xưa Hoàng thị”, “Em lễ chùa này”… Phạm Duy còn hợp tác với Phạm Thiên Thư để cho ra đời 10 bài Đạo ca nổi tiếng. Có thể nói cuộc hạnh ngộ của Phạm Duy và Phạm Thiên Thư là duyên may, "như mây gặp núi", đã làm danh tiếng hai nghệ sĩ tài danh  họ Phạm thêm lừng lẫy và còn để lại cho đời những tác phẩm bất hủ. Trong kỷ niệm 50 năm sáng tác của nhà thơ Phạm Thiên Thư được tổ chức tại Nhà hát TP Hồ Chí Minh đêm 21/12/2011, nhạc sĩ Phạm Duy đã nói: "Nếu không có Phạm Thiên Thư thì  không có Phạm Duy". Câu nói có thể phần nào xả giao, nhưng  cho thấy Phạm Duy đã tôn trọng và đánh giá rất cao thơ của Phạm Thiên Thư.

                    

            Thi sĩ Phạm Thiên Thư và nhạc sĩ Phạm Duy giao lưu cùng khán giả

      Kỷ niêm 1000 năm Thăng long Hà Nội, Phạm Thiên Thư cho ra đời tác phẩm “Hát ru Việt sử thi”, mà theo nhà thơ, đó là tình cảm và trí tuệ, anh hùng khí phách, âm thanh và sự sống con người Việt Nam muôn đời qua siêu thức hát ru …” Với 3.325 câu lục bát, “Việt sử thi” đã kể chuyện lịch sử bằng thơ từ thời vua Hùng dựng nước đến triều đại Tây Sơn….
    Thơ của Phạm Thiên Thư đủ  sắc màu, giai điệu,  “sang trọng” lẫn “bình dân”.     Có những vần thơ lung linh huyền ảo, bay bổng, nhẹ nhàng thoát tục, dễ đưa tâm hồn người lâng lâng vào cõi thiên thai, mơ hồ.   

 Thức giấc ta nhìn em
Long lanh ngoài cửa sổ
Hạt lệ xanh thiên cổ
Sáng giữa vầng đêm đen
Ngôi sao hình như quen
Ướp trong lòng thơ cũ
Dường có chi ấp ủ
Đậu thơm nhành hoa sen…
  (Sao khuya)

Những câu thơ tha thiết, nồng nàn:
 Thôi thì em mặc áo xanh
Cho hồn ta ẩn bên nhành kết thơ
Thôi thì em rủ tóc tơ
Cho ta tựa gốc sương mờ tịnh tâm
Thôi thì em nguyện lâm râm
Cho ta ngửi nẫu môi trầm như lai
Lỡ không cái gã địa tài
Đắp chăn gã ngủ giấc dài trong tôi
Một mai ta có luân hồi
Tái sinh lại giữa khóe môi em hồng…
   (Khúc tự tình phù du)
 Có những câu  ngang tàng khí phách:
….Vó ngựa qua cầu còn mây mù
Khói phù hư dong nốt phù du
Xốc xếch đeo túi thơ bầu rượu
Cùng cỏ hoa vẫy chào xuân thu

Khua mái chèo cuốn cả thiên thanh
Thuyền chở xuân gỗ cùng đơm nhành
Vỗ bầu rượu hát câu chuốc rượu
Gạc chân mây nổi giữa dòng xanh…
   (Ngày xưa Tù Thức)
  Phiêu diêu thoát tục
….Ðất Nam có lão trồng hoa
Mùa hoàng cúc nở ướp trà uống đông
Lại đem bầu ngọc ra trồng
Bầu khô cất nậm rượu hồng uống xuân

Người vui ngựa chợ xe thành
Ta leo cầu trúc bên ghềnh thác rơi
Theo chân chim gặp mây trời
Lại qua khói động hỏi người tu non….
   (Động hoa vàng)

     Cùng với những thi phẩm tuyệt tác, nhà thơ Phạm Thiên Thư còn có không ít tác phẩm “bình dân”, nôm na, hóm hỉnh, chọc cười, như 10 bài thơ răn vệ sinh:
       Đi cầu (tập hỷ xả)
 Cái xấu cho đi chẳng tiếc chi
 Thải luôn hờn giận- chớ nên ghi
Coi như mơ ngủ- như chưa gặp
Để trướng trong tâm – có ích gì?

      Rửa mặt (tập chu toàn)
Vò cho khăn sạch mới đem dùng
Lỡ dán đêm qua tới “ị” cùng
Chớ tưởng của mình là sạch cả
Biết đâu kẻ xấu lén xài chung
 
       Soi gương (tập tự trọng)
Ra phố nên soi kỹ mặt mày
Đẹp mình trước đã để người hay
Đẹp hơn tất cả là nhân cách
Chẳng hỗ trời cao thẹn đất dày

   Mặc đồ (tập cảnh giác)
Trước giũ rồi sau mới xỏ vào
Biết đâu rết, nhện ẩn trong “bào”
Cứ nên cảnh giác là hơn cả
Những chỗ không ngờ- bị mới đau…
   Sắp bước vào tuổi 72, Phạm Thiên Thư vẫn miệt mài sáng tác, nhà thơ vừa tiết lộ đã hoàn thành và sẽ “trình làng” trong năm 2012 một số tác phẩm: “Hồi ký 1”, với 10.000 câu thơ nói về cuộc đời của mình từ thuở ấu thơ đến năm 1975 ; “Nhật ký quán Hoa Vàng”, nhật ký thể thơ, ghi lại những gặp gỡ giao lưu với bạn bè, thân hữu thường ngày tại quán Hoa Vàng, khoảng 8.000  bài thơ 4 câu; “Xanh ngôn huyền”, chuyển từ tác phẩm “Huyền ngôn xanh” (ý tưởng khắp thế giới- google) và có thêm một chương; “Dưỡng  sinh huyền”, gồm 6.000 câu thơ về phương pháp dưỡng sinh Phathata (Pháp- Thân- Tâm). Nhà thơ còn sắp cho ra đời một công trình đồ sộ, là bộ “Từ điển Tâm Phật”  khoảng 10.000 trang thơ, gồm 4 phần: Tâm Phật 1, Tâm Phật 2, Tâm Phật 3 và Tâm ngôn Thiền.
      Nhà thơ Phạm Thiên Thư cho biết, hiện nay ông vừa hiệu đính các tác phẩm sắp xuất bản, vừa tiếp tục viết “Hồi ký 2” về cuộc đời từ sau năm 1975 đến hiện tại; đồng thời bắt đầu viết “Kinh Trang”, chuyển từ tác phẩm "Trang Kinh" của Trung Quốc sang thể loại thơ 4 câu, theo tinh thần ngôn ngữ Việt Nam.

                        

                              
Nhà thơ Phạm Thiên Thư và nhà báo Lê Bá Lư

                        

         Nhà thơ Phạm Thiên Thư và  Bùi Phước Vĩnh

                  

                         Nhà thơ Phạm Thiên Thư với những người mến mộ


     Có thể nói sáng tạo của nhà thơ Phạm Thiên Thư thật độc đáo và phi thường. Đến nay ông đã viết hơn 15 vạn câu thơ thuộc nhiều lãnh vực. Chỉ tính trong 10 năm qua, ông đã cho ra đời hơn 30 tác phẩm trường thi. Dường như ông viết từ siêu thức, thơ đã có sẵn trong đầu cứ thế mà trào ra. Nhà thơ bộc bạch: “Có lẽ là nhờ vào nguồn lực thiền, mỗi lần cảm xúc tôi khẽ nhắm mắt lại là thi tứ dâng lên”.Phạm Thiên Thư thường thức làm thơ đến 1- 2 giờ sáng và mỗi đêm ông ngồi thiền ít nhất là 1 tiếng đồng hồ, mà theo ông là để "phục hồi và nạp thêm năng lượng".
       Với phong thái ung dung, hòa nhã của một thiền sư, nhà thơ Phạm Thiên Thư lúc nào cũng khiêm cung và sẵn sàng chia sẻ với tha nhân. Thấm nhuần tư tưởng Phật giáo nên thơ ông dù ở lãnh vực nào cũng chứa đựng tư tưởng thiền. Theo ông, không cần phải vô chùa tu hay sống biệt lập, ai ai cũng có thể tìm chân lý thiền trong cõi trần tục này. Ông thường khuyên mình cũng như khuyên người: “Luôn biết mình dốt-Để gột tính kiêu-Để yêu như mới-Để cởi mối hiềm-Để thêm tinh tiến…”.
      Ngoài  là một nhà thơ nổi tiếng, Phạm Thiên Thư còn là một nhà ngoại cảm, một thầy thuốc chữa bệnh khá nổi tiếng theo phương pháp dưỡng sinh Phathata do ông sáng lập. Theo ông,  Phathata là một phương pháp chữa trị bệnh tật và rèn luyện sức khỏe bằng cách đánh thức tiềm năng con người, tự điều chỉnh bế tắc, rối loạn cơ thể và tâm lý thông qua khả năng siêu ý thức và những cách tham thiền, vận nội công và yoga. Phương pháp này được chính quyền địa phương công nhận đã điều trị hiệu quả cho những người cai nghiện ma túy tại cộng đồng dân cư.
    Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long, sinh năm 1940 tại Hải Phòng, vào Nam năm 1954, ông đã từng đi tu gần 10 năm ở chùa Vạn Thọ - thành phố Hồ Chí Minh (1964-1973). Sau khi hoàn tục ông lập gia đình, có 3 người con trai. Cuộc đời nhà thơ cũng trải qua nhiều thăng trầm, ông đã từng làm nhiều nghề vất vả để kiếm sống. Quán Hoa vàng của gia đình ông được mở từ 10 năm nay. Đây là cũng là nơi gặp gỡ, giao lưu của giới văn nghệ sĩ và những người mến mộ “gã từ quan- Phạm Thiên Thư".
     Vốn là một người am hiểu sâu sắc Phật pháp và giáo lý nhà Phật, nhà thơ Phạm Thiên Thư đã hiểu lẽ vô thường của tạo hóa. Ông thường nói đời người là phù vân nhưng cũng nhiều thú vị, đừng âu lo, không trụ, không chấp mới được an lạc. Ông thường khuyên bạn bè hãy cười nhiều hơn để thêm sức khỏe cho mình và mang niềm vui đến cho mọi người. Phạm Thiên Thư thường hay dí dỏm: cười nhiều vui nhiều thế giới sẽ hòa bình.... Nhà thơ đã nâng giá trị nụ cười lên tầm cao nhân văn./.
       Lê Bá Lư

Quán Hoa Vàng  (Cãm tác bài  đưa em tìm Động Hoa Vàng của Phạm Thiên Thư)

Chiều nay ghé quán "Hoa Vàng"
Tình cờ  gặp lại anh chàng từ quan
Lên non tìm "động hoa vàng"
Ngủ say quên cả giang san núi rừng
Nhớ người nước mắt rưng rưng
Nhớ ai anh đã thôi đừng ngắm trăng
Buồn trông cánh bướm xa xăm
Bên đồi Tây lượn vây quanh hoa vàng
Nhớ xưa anh đã xa nàng
Lên non tìm động hoa vàng rong chơi
Thôi thì cứ mặc hoa trôi
Dù em có phụ bỏ tôi theo chồng
Sang đông em mặc áo bông
Xuân về khoác áo lụa hồng-xe hoa
Mồ hoang chôn mối  tình ta
Thôi thì thôi thế chỉ là phù vân

BùiPhướcVĩnh  

Sunday, September 23, 2012

DÁNG THU



 Thu đã về rồi em có hay
Nhớ nhung chồng chất theo tháng ngày
Người đi có nhớ ngày xưa ấy
Lá vàng rơi rụng mùa chia tay


Xa nhau từ độ lá thu bay
Xơ xác hàng cây dáng liễu gầy
Em về bên ấy khung trời mộng
Ta ở phương nầy thu chẵng hay..

BPV 9/2012

Friday, August 31, 2012

LỤC BÁT HUẾ



Bùi Phước Vĩnh. LỤC BÁT HUẾ

Gởi Huế

Huế ơi ta đã trở về
Bao năm xa cách tình quê dạt dào
Ra đi lòng cứ nao nao
Ngày về thăm lại biết bao ngỡ ngàng
Hương giang sâu lắng mơ màng
Tràng tiền mấy nhịp dịu dàng dáng xưa
Thuyền ai rẽ sóng đong đưa
Mái nhì vọng tiếng giữa trưa nắng hè
Tìm đâu trong những tiếng ve
Bóng người năm ấy chuyến xe ngày nào
Đường về Bến Ngự dốc cao
Thôi rồi ta đã lạc vào bến mơ
Chuyện tình đẹp tựa vần thơ
Dù đời hai ngã đôi bờ cách xa
Thoáng trong giây phút mặn mà
Đã thành kỷ niệm tình là thiên thu

BPV

NHỚ HUẾ

Người đi bỏ Huế sao đành
Đò xưa neo bến chòng chành đợi ai
Sương mù phủ kín bờ vai
Nắng chiều hiu hắt chảy dài cuối sông
Tràng Tiền mấy nhịp cong cong
Phất phơ tà áo bên dòng Hương giang
Xa xa vọng tiếng chuông vang
Cho ta giây phút bình an tâm hồn
Đò chiều xuôi mái hoàng hôn
Sau lưng bỏ lại nhịp buồn sóng tan
Gót giày in dấu thời gian
Bâng khuâng phượng nở trường tan nắng hè
Nhạc lòng hòa khúc tiếng ve
Xa rồi ngày ấy chuyến xe cuộc đời
Huế buồn theo giọt mưa rơi
Người đi vàng lá tơi bời dáng thu
Bóng ai khuất nẻo sương mù
Cố đô vọng mãi lời ru ngọt ngào

BPVĩnh












Wednesday, May 2, 2012

Hình ảnh Sài Gòn 40 năm về trước

Những bức ảnh này sẽ đem lại cho người Việt Nam một góc nhìn thú vị về cuộc sống của những thế hệ hơn 40 năm trước.




Đài phun nước trước quảng trường Lam Sơn.



Đại lộ Thống Nhất. Bên mép phải hình là cổng trường Tiểu học Văn Hóa Quân Đội, nơi ngày nay là Khách sạn Sofitel Plaza.



Cuối đường Tự Do - Majestic Hotel và Grand Hotel (nhà có tháp tròn).



Bến Bạch Đằng đầu đường Nguyễn Huệ.



Đường Trương Công Định.



Bưu Điện Trung ương.



Đường Nguyễn Huệ.



Đường Trương Công Định.



Hội quán Tuệ Thành trên đường Nguyễn Trãi, khu vực Chợ Lớn.



Dinh Độc Lập.



Tòa nhà Đại sứ quán Mỹ.



Công viên Tao Đàn.



Trước cửa đền Ấn Giáo đường Trương Công Định.



Trên sân thượng đền Ấn giáo.